Kính thưa Đoàn Chủ tịch Đại hội,
Kính thưa toàn thể Đại hội,
Giai đoạn 2016-2020 là giai đoạn tình hình kinh tế - xã hội thế giới biến động phức tạp và khó lường, xung đột chính trị, căng thẳng thương mại giữa các nước lớn gia tăng. Đặc biệt năm 2020, thế giới chứng kiến Đại dịch Covid -19 bùng phát, lan rộng và tác động nghiêm trọng tới mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới, trong đó, có Việt Nam. Chưa bao giờ, chính phủ, các cơ quan quản lý và ngân hàng trung ương (NHTW) các nước lại đưa ra nhiều giải pháp, với quy mô lớn hàng nghìn tỷ USD để ứng phó trước tác động của đại dịch, hỗ trợ kinh tế vượt qua suy thoái. Với đặc điểm là một nền kinh tế có độ mở cao và đang trong tiến trình hội nhập sâu rộng vào kinh tế toàn cầu, những biến động, rủi ro của thị trường thế giới đã đặt ra nhiều thách thức đối với điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) và công tác quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Bám sát mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát cho giai đoạn 2016-2020 mà Đại hội XII của Đảng đề ra là bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển kinh tế nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế cao hơn năm năm trước trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và các nhiệm vụ trọng tâm liên quan đến hoạt động ngân hàng, Ban Cán sự đảng, Ban Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, chủ động thực hiện nhiều giải pháp, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Nhìn lại cả giai đoạn 2016-2020, công tác điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng đã đạt được những thành tựu nổi bật sau đây:
Thứ nhất, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ hiệu quả nhờ sự kiên định, chủ động, thận trọng và linh hoạt, từ đó góp phần kiểm soát lạm phát ở mức dưới 4% theo đúng mục tiêu của Quốc hội đề ra, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối:
Sự kiên định thể hiện qua hằng năm, Thống đốc NHNN đều ban hành chỉ thị xác định rõ mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Trên cơ sở đó điều hành đồng bộ các công cụ và giải pháp CSTT, đúng thời điểm và với liều lượng hợp lý, phối hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác, phản ứng nhanh nhạy, phù hợp diễn biến kinh tế thế giới và trong nước. Sự chủ động thể hiện qua việc NHNN luôn bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ trong nước và quốc tế, chủ động phân tích, dự báo, xây dựng phương án điều hành; chủ động truyền thông, cung cấp thông tin cho báo chí, giải thích rõ định hướng chính sách, thực trạng hoạt động tiền tệ, ngân hàng, nhờ vậy tăng tính hiệu quả của các giải pháp và công cụ chính sách mà NHNN áp dụng. Khi thực hiện các giải pháp để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, NHNN luôn thận trọng, không chủ quan với lạm phát, bởi vậy có các giải pháp để kiểm soát tiền tệ phù hợp.
Các công cụ chính sách được điều hành linh hoạt, tùy thuộc vào cung cầu của thị trường, diễn biến, bối cảnh và mục tiêu chính sách. Có thể thấy rõ qua việc điều hành tỷ giá trung tâm linh hoạt, biến động hằng ngày, theo đó hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ; khi cung cầu ngoại tệ thuận lợi, NHNN đã mua được một lượng lớn ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, gấp khoảng ba lần so cuối năm 2015. Và khi thị trường thiếu hụt, tỷ giá biến động lớn, NHNN sẵn sàng bán ngoại tệ can thiệp thị trường, tạo lòng tin đối với năng lực điều hành, góp phần ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối.
Đáng chú ý là khi đưa một lượng tiền lớn mua ngoại tệ nhưng NHNN vẫn kiểm soát tốt tiền tệ, kiểm soát được lạm phát. Tính linh hoạt trong điều hành còn thể hiện ở chỗ, năm 2020, trước bối cảnh doanh nghiệp và người dân chịu tác động mạnh mẽ bởi đại dịch Covid-19, NHNN là một trong những bộ ngành vào cuộc rất sớm, cắt giảm lãi suất điều hành ba lần, là NHTW giảm lãi suất điều hành mạnh nhất so các nước trong khu vực. NHNN kịp thời ban hành văn bản cho phép tổ chức tín dụng (TCTD) cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vay và giữ nguyên nhóm nợ, giảm phí thanh toán. Cho vay tái cấp vốn đối với Ngân hàng Chính sách xã hội để người sử dụng lao động vay trả lương ngừng việc cho người lao động…
Đây là những giải pháp kịp thời và rất thiết thực khi doanh nghiệp và người dân khó khăn trong việc trả nợ, không có đủ nguồn tiền để trả lương do sụt giảm nguồn thu. Các giải pháp đồng bộ, quyết liệt của NHNN đã góp phần phục hồi kinh tế, đưa nước ta trở thành một trong số ít các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng dương trên thế giới trong năm 2020.
Kết quả cho thấy trong cả giai đoạn, lạm phát bình quân luôn được kiểm soát ở mức dưới 4%, theo đúng chỉ tiêu Quốc hội đề ra và thấp hơn nhiều so với mức bình quân của giai đoạn trước. Mặt bằng lãi suất tương đối ổn định, lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên giảm 2,5%/năm kể từ năm 2017 đến nay. Tính chung, mặt bằng lãi suất cho vay trong năm năm qua giảm 3,7% so giai đoạn 2011-2015, thị trường tiền tệ, ngoại hối, thị trường vàng cơ bản ổn định, dự trữ ngoại hối Nhà nước tăng cao; tình trạng đô-la hóa giảm dần, niềm tin vào đồng Việt Nam ngày càng được nâng lên. Chủ trương chống “đô-la hóa” trong nền kinh tế được thực hiện hiệu quả, thu hẹp dần đối tượng cho vay ngoại tệ theo lộ trình kết hợp với các biện pháp điều hành nhằm tăng vị thế của đồng Việt Nam, nguồn vốn bằng ngoại tệ và vàng được chuyển hóa thành tiền phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đây là những yếu tố củng cố niềm tin của nhà đầu tư, góp phần nâng mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia.
Thứ hai, điều hành tín dụng theo phương châm mở rộng đi đôi với an toàn, hiệu quả, phù hợp chủ trương từng bước giảm dần tỷ lệ vốn đầu tư từ tín dụng ngân hàng, hỗ trợ đổi mới mô hình và nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế: Các giải pháp, chính sách tín dụng của NHNN đã đi đúng hướng, vừa bảo đảm an toàn, cung ứng đủ vốn cho nền kinh tế, vừa phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát. Bình quân tín dụng tăng 15%/năm, riêng năm 2020 tăng 12,13%, đây là mức tăng phù hợp trong bối cảnh cầu tín dụng của nền kinh tế còn yếu do tác động của Đại dịch Covid-19. Đáng chú ý là điều hành tín dụng đã gắn với việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế và phù hợp với chủ trương từng bước giảm tỷ lệ cung cấp cho đầu tư phát triển từ kênh tín dụng ngân hàng (năm 2018, 2019, tín dụng tăng dưới 14% nhưng GDP vẫn tăng cao ở mức 7,08% và 7,02%).
Cơ cấu tín dụng chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên (như tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn chiếm gần 25%; doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm khoảng 20% tổng dư nợ nền kinh tế...)[1]. Tín dụng của hệ thống ngân hàng ngày càng hướng đến kinh tế tư nhân, là động lực quan trọng của nền kinh tế. Từ năm 2016 đến nay, tín dụng đối với kinh tế tư nhân tăng nhanh cả về tốc độ và tỷ trọng. Tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với kinh tế tư nhân/tổng dư nợ chiếm khoảng 90%, tốc độ tăng tín dụng đối với kinh tế tư nhân qua các năm đều cao hơn tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế.
Ngoài ra, NHNN cũng triển khai kịp thời, hiệu quả các chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ như chính sách tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nhằm góp phần hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới, cho vay đối với hộ nghèo, đối tượng chính sách, hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững… góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các địa phương, tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo. Các giải pháp thúc đẩy phát triển “tín dụng xanh”, “ngân hàng xanh”, phát triển tài chính toàn diện, tạo công ăn việc làm và bảo đảm an sinh xã hội ngày càng được quan tâm.
Thứ ba, hoạt động thanh toán có những bước tiến vượt bậc cả về chất và lượng với nhiều sản phẩm, dịch vụ thanh toán mới, tiện ích và hiện đại dựa trên ứng dụng công nghệ thông tin; Công nghệ thanh toán đã có bước phát triển mang tính đột phá; thanh toán không dùng tiền mặt được đẩy mạnh, các hoạt động chuyển đổi số, sản phẩm dịch vụ ngân hàng số phát triển mạnh mẽ. Các chỉ số thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) tăng trưởng ấn tượng (trong đó, số lượng giao dịch qua phương tiện TTKDTM tăng 344,2% về số lượng và 96,1% về giá trị so cùng kỳ năm 2016). Tăng trưởng thanh toán trên điện thoại di động trong nhiều năm đạt mức trên 100%/năm; giao dịch được xử lý trực tuyến trên môi trường mạng chiếm đa số so giao dịch tại chi nhánh. Công tác bảo đảm an ninh, an toàn hệ thống TTKDTM được coi trọng và tăng cường; các rủi ro, nguy cơ mất an toàn cơ bản được nhìn nhận, kiểm soát và xử lý kịp thời.
Có được kết quả trên là do NHNN nâng cao năng lực tiếp cận và chủ động ứng dụng khoa học công nghệ; nghiên cứu, bổ sung các quy định pháp lý phù hợp đối với các sản phẩm, mô hình dịch vụ, phương tiện thanh toán mới nhằm xây dựng đồng bộ cơ sở pháp lý, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công nghệ thanh toán đáp ứng nhu cầu của xã hội và hội nhập quốc tế. Phối hợp các bộ, ngành liên quan xây dựng đề án thanh toán không dùng tiền mặt, nghiên cứu triển khai cơ chế quản lý thử nghiệm hoạt động công nghệ tài chính (Fintech), thử nghiệm các mô hình thanh toán mới, thí điểm quản lý hoạt động cho vay ngang hàng (P2P Lending) tại Việt Nam…
Thứ tư, công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu được thực hiện nghiêm túc, từng bước hiệu quả, bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng, tăng cường công tác thanh tra, giám sát, phòng chống rửa tiền để nâng cao tính minh bạch trong nền kinh tế: Quy mô hệ thống các TCTD tiếp tục tăng; năng lực tài chính của các TCTD được củng cố, vốn điều lệ tăng dần qua các năm; chất lượng quản trị, điều hành của các TCTD từng bước được nâng cao để tiệm cận với thông lệ quốc tế; chú trọng hơn trong việc quản trị rủi ro và tăng cường tính minh bạch thông tin hoạt động theo quy định của pháp luật.
Hầu hết các TCTD đã áp dụng tỷ lệ an toàn vốn theo Thông tư số 41/2016/TT-NHNN, trong đó đến hết năm 2019, 18 TCTD đã được NHNN chấp thuận áp dụng trước thời hạn tỷ lệ an toàn vốn; hoàn thành vượt mức chỉ tiêu 12-15 TCTD đạt chuẩn Basel II về an toàn vốn vào năm 2020. Vấn đề sở hữu chéo, đầu tư chéo trong hệ thống các TCTD đã được xử lý có hiệu quả, tình trạng cổ đông/nhóm cổ đông lớn, thao túng, chi phối ngân hàng được kiểm soát; số cặp TCTD sở hữu chéo trực tiếp lẫn nhau đến nay đã khắc phục hết. Các giải pháp xử lý nợ xấu được triển khai đồng bộ theo Nghị quyết 42 cùng với các biện pháp kiểm soát, phòng ngừa nợ xấu mới phát sinh đã góp phần nâng cao chất lượng tín dụng và giảm tỷ lệ nợ xấu của hệ thống các TCTD.
Công tác giám sát tiếp tục đạt được kết quả tích cực, đã có sự nhận diện, đánh giá các rủi ro tiềm ẩn để kịp thời cảnh báo; đồng thời chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin nhằm đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Trên cơ sở kết quả giám sát, NHNN đã ban hành các văn bản chỉ đạo, chấn chỉnh các TCTD, chi nhánh NHNN. Công tác phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố tiếp tục đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần bảo vệ an ninh tài chính - tiền tệ quốc gia và sự an toàn của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Thứ năm, công tác cải cách hành chính giai đoạn 2016-2020 được quan tâm chỉ đạo triển khai quyết liệt, đạt được kết quả tích cực trên tất cả các mặt. NHNN năm năm liên tục đứng đầu các bộ, ngành Trung ương trong Bảng xếp hạng Chỉ số cải cách hành chính Par-Index do Ban Chỉ đạo Cải cách hành chính (CCHC) của Chính phủ đánh giá. Đặc biệt, điểm số điều tra xã hội học nhiều năm liên tiếp dẫn đầu và gần chạm ngưỡng điểm tối đa cho thấy công cuộc CCHC của NHNN được xã hội ghi nhận.
Theo báo cáo Môi trường Kinh doanh của Ngân hàng Thế giới năm 2020, Chỉ số tiếp cận tín dụng Việt Nam ở vị trí 25/190 quốc gia và vùng lãnh thổ, tăng bảy bậc so Doing Business 2019 và đứng thứ 2 trong khu vực ASEAN (chỉ sau Brunei), thứ 7 trong khu vực châu Á, vượt mục tiêu tăng ít nhất một bậc mà Chính phủ yêu cầu.
Trong chỉ đạo điều hành, với phương châm chính sách phải xuất phát từ thực tiễn, ngành ngân hàng đã tăng cường triển khai chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp dưới hình thức gặp gỡ, đối thoại trực tiếp trên địa bàn 63 tỉnh, thành phố (từ năm 2016 đến nay có khoảng 4.000 cuộc kết nối và 21 hội nghị lớn), nhằm tháo gỡ khó khăn trong tiếp cận tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân vay vốn ngân hàng.
Thứ sáu, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Xác định công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật là công việc trọng tâm, trong nhiệm kỳ 2006-2020, NHNN đã xây dựng, ban hành/trình cấp có thẩm quyền ban hành một khối lượng lớn các văn bản quy phạm pháp luật quản lý mọi mặt hoạt động ngân hàng, tạo hành lang pháp lý ngày càng minh bạch, tiến dần hơn tới thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
Các văn bản ban hành đã tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ cơ cấu lại TCTD, xử lý nợ xấu (Luật Các TCTD sửa đổi, bổ sung và Nghị quyết 42 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu); các chính sách nâng cao năng lực quản trị, điều hành, chú trọng quản trị rủi ro của TCTD; tăng cường năng lực thể chế trong hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng; rà soát, sửa đổi quy định về hoạt động của hệ thống QTDND; tạo cơ sở pháp lý khơi thông nguồn vốn tín dụng cho nền kinh tế, tháo gỡ khó khăn cho các khu vực sản xuất kinh doanh, hỗ trợ đắc lực chuyển dịch cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn; hạn chế tình trạng đô-la hóa, đồng thời đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế; phát triển các hoạt động TTKDTM, bảo đảm an ninh an toàn trong các giao dịch thanh toán, bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người gửi tiền; cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính tại NHNN, tạo hành lang pháp lý thông thoáng, thuận lợi, rõ ràng, minh bạch cho TCTD, tổ chức, cá nhân thực hiện, củng cố lòng tin của người dân vào hệ thống ngân hàng[2].
Có được những kết quả quan trọng nêu trên là nhờ trong điều hành CSTT và quản lý hoạt động ngân hàng, Ban Cán sự Đảng NHNN, Ban Thường vụ Đảng ủy cơ quan NHTW đã luôn phối hợp chặt chẽ trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện quyết liệt các giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả CSTT và hoạt động ngân hàng, có thể đúc rút phương châm điều hành của NHNN mang lại thành công trong giai đoạn 2016-2020 là sự kiên định về mục tiêu; chủ động, thận trọng, linh hoạt trong điều hành; các giải pháp và công cụ điều hành được phối hợp theo hướng bảo đảm vị thế đồng Việt Nam; chú trọng công tác thanh tra, giám sát để bảo đảm thực thi nghiêm các chính sách trong thực tiễn, và qua thanh tra giám sát mới phát hiện những vướng mắc, bất cập để hoàn thiện chính sách cho phù hợp. Tăng cường công tác truyền thông để tăng cường tính minh bạch, giải trình chính sách, tạo niềm tin cho doanh nghiệp và người dân vào chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và điều hành của NHNN Việt Nam.
Nhiệm kỳ 2021-2025 và những năm tiếp theo, tình hình thế giới dự kiến sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, nhiều bất trắc, khó lường, dịch bệnh có khả năng kéo dài, ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế - xã hội của hầu hết các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong điều kiện Việt Nam đã hội nhập quốc tế sâu rộng và có độ mở kinh tế lớn, với tác động tiêu cực và chưa có hồi kết của đại dịch Covid-19, hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân tiếp tục khó khăn, chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới hoạt động của hệ thống ngân hàng, nhất là quá trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu. Trong bối cảnh thương mại giữa các nước lớn vẫn gia tăng, các đối tác thương mại lớn quan tâm sâu hơn về điều hành kinh tế vĩ mô, CSTT và gia tăng giám sát thương mại đối với Việt Nam, đặt ra nhiều thách thức đối với NHNN Việt Nam trong điều hành CSTT.
Bối cảnh trên đòi hỏi quyết tâm cao của toàn hệ thống Ngân hàng, sẽ tiếp tục phát huy các thành quả quan trọng đã đạt được và nhận thức rõ những thách thức đặt ra, tập trung thực hiện có hiệu quả các giải pháp điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ngành Ngân hàng và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Trong đó nhấn mạnh vào các mặt công tác sau đây:
1. Tiếp tục kiên định mục tiêu kiểm soát lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Cải thiện chất lượng đầu vào cho hoạch định chính sách (nâng cao chất lượng thống kê, phân tích, dự báo), chủ động, thận trọng và linh hoạt điều hành các giải pháp và công cụ CSTT, phối hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác, nhất là chính sách tài khóa để ứng phó linh hoạt, tăng sức chống chịu của nền kinh tế trước những biến động của kinh tế, tiền tệ thế giới. Tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước khi điều kiện thị trường thuận lợi, tạo dự trữ đệm để chống đỡ khi có các cú sốc xảy ra, góp phần tăng tính độc lập tự chủ của nền kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Thực hiện đồng bộ các biện pháp chuyển quan hệ huy động vốn và cho vay ngoại tệ giữa TCTD với khách hàng vay sang quan hệ mua bán ngoại tệ để tiếp tục giảm tình trạng đô-la hóa trong nền kinh tế; triển khai lộ trình từng bước tự do hóa giao dịch vốn của Việt Nam một cách thận trọng, phù hợp. Tiếp tục triển khai các giải pháp quản lý thị trường vàng theo Nghị định số 24/2012/NĐ-CP của Chính phủ.
3. Tiếp tục thực hiện các biện pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi sau đại dịch Covid-19, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững; mở rộng tín dụng theo hướng tập trung vốn cho vay đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, bảo đảm an toàn hoạt động. Tích cực triển khai các chương trình tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, khuyến khích TCTD phát triển các sản phẩm tín dụng đáp ứng nhu cầu hợp pháp của người dân, đặc biệt là các đối tượng thu nhập thấp, góp phần hạn chế “tín dụng đen”. Tiếp tục chỉ đạo Ngân hàng Chính sách Xã hội (NHCSXH) đẩy mạnh triển khai các chương trình cho vay đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách. Tiếp tục phối hợp các bộ, ngành triển khai có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030.
4. Tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của TCTD, đặc biệt là đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao. Theo dõi, nắm bắt kịp thời các diễn biến bất thường có nguy cơ rủi ro để kiến nghị, khuyến nghị, cảnh báo TCTD xử lý kịp thời nhằm ngăn ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động của TCTD. Thường xuyên cảnh báo rủi ro, ngăn chặn khả năng phát sinh vi phạm, tập trung thanh tra có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm hệ thống hoạt động an toàn, lành mạnh, chủ trì phối hợp các bộ, ngành thực hiện tốt công tác phòng chống rửa tiền, tăng tính minh bạch đối với các giao dịch trong nền kinh tế, góp phần phòng chống tội phạm, bảo vệ an ninh tiền tệ quốc gia.
Tiếp tục giám sát chặt chẽ và chỉ đạo các TCTD triển khai quyết liệt, hiệu quả phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu đã được phê duyệt. Tập trung chỉ đạo cơ cấu lại các TCTD yếu kém bằng các hình thức phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống các TCTD. Tham mưu các cấp có thẩm quyền việc ban hành và triển khai thực hiện Đề án cơ cấu lại các TCTD giai đoạn 2021-2025. Thực hiện đề án tái cơ cấu gắn với xử lý nợ xấu, nâng cao trình độ quản trị hoạt động, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng; phát triển hệ thống các TCTD nhằm đạt được các mục tiêu của Chiến lược ngành Ngân hàng đã đề trong giai đoạn 2020 - 2025. Phát triển hệ thống các TCTD theo hướng các TCTD trong nước đóng vai trò chủ lực, hướng tới đạt trình độ phát triển của nhóm bốn nước dẫn đầu khu vực ASEAN vào năm 2025.
5. Tập trung hoàn thành các nhiệm vụ phát triển TTKDTM tại Việt Nam. Đẩy mạnh xây dựng hạ tầng công nghệ phục vụ cho việc chia sẻ, cung ứng các sản phẩm số và tăng cường tích hợp, kết nối với các bộ, ngành, lĩnh vực còn lại để mở rộng hệ sinh thái; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng thành tựu CMCN 4.0 trong hoạt động thanh toán; nghiên cứu, áp dụng các công nghệ, phương thức thanh toán hiện đại; triển khai các mô hình thanh toán tại nông thôn, vùng sâu, vùng xa gắn với triển khai Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia; thúc đẩy thanh toán điện tử trong khu vực Chính phủ, dịch vụ công. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, đào tạo, hướng dẫn và bảo vệ người tiêu dùng trong TTKDTM. Triển khai các giải pháp thúc đẩy đổi mới, sáng tạo hoạt động ngân hàng thông qua cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính (Fintech); Triển khai hiệu quả Chiến lược tài chính toàn diện Quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 để cuối năm 2025 đạt được các mục tiêu của Chiến lược này đề ra cho giai đoạn 2020 - 2025.
6. Thực hiện tốt chương trình cải cách thủ tục hành chính, triển khai hiệu quả Nghị quyết của Chính phủ về phát triển Chính phủ điện tử; xây dựng văn hoá công sở, văn hóa doanh nghiệp, đổi mới phương thức, lề lối làm việc, nâng cao chất lượng hiệu quả công tác, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân; đẩy mạnh hoạt động thông tin tín dụng để nâng cao độ phủ và duy trì điểm chiều sâu thông tin tín dụng; tiếp tục phối hợp chặt chẽ với bộ, ngành thực hiện các giải pháp góp phần nâng cao Chỉ số tiếp cận tín dụng, cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
7. Chủ động, tích cực hợp tác và hội nhập quốc tế, thúc đẩy hợp tác song phương và đa phương trong lĩnh vực ngân hàng; triển khai công tác truyền thông theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả, nâng cao sự minh bạch hóa thông tin, đáp ứng yêu cầu hoạt động thông tin của NHNN và thực hiện các cam kết quốc tế.
8. Hoàn thiện thể chế pháp luật ngân hàng, trong đó trọng tâm là tổng kết, nghiên cứu khả năng sửa đổi, bổ sung Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng; Luật Bảo hiểm tiền gửi; Luật Phòng chống rửa tiền, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng, tăng cường thực thi các cam kết quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng. Chủ động rà soát, sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách, quy định pháp luật về hoạt động ngân hàng tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế phục hồi sau dịch Covid-19.Tiếp tục triển khai/giám sát Chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 và các Chương trình/Kế hoạch hành động, Đề án, kế hoạch phát triển Ngành đã ban hành.
Tóm lại, trong nhiệm kỳ vừa qua, việc điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao xếp hạng tín nhiệm quốc gia. Đây là động lực quan trọng để Ban cán sự Đảng NHNN tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo kiên trì các giải pháp theo mục tiêu đề ra.
Với những thành tựu của ngành Ngân hàng và của đất nước trong những năm qua, với thế và lực cũng như vị thế mới của Việt Nam, sự quan tâm sâu sắc và lãnh đạo toàn diện của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, ngành Ngân hàng có cơ sở để vững tin sẽ vượt qua mọi khó khăn, thách thức, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước giao phó, đưa hệ thống ngân hàng phát triển nhanh, toàn diện, hiệu quả, an toàn, bền vững và đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
[1] Tăng trưởng tín dụng và GDP năm 2016 tương ứng là 18,25% và 6,21%; năm 2017 là 18,28% và 6,81%; năm 2018 là 13,89% và 7,08%; năm 2019 là 13,65% và 7,02%.
[2] Từ năm 2016 đến nay, NHNN đã trình Quốc hội, Chính phủ/Thủ tướng Chính phủ ban hành 01 Luật, 01 Nghị quyết, 15 Nghị định, 04 Quyết định; trình Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt ‘Chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030’ và ‘Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030’; ban hành 168 Thông tư, 01 Thông tư liên tịch.
Nguồn tin: /http://nhandan.com.vn
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Ý kiến bạn đọc